Thứ Hai, 28 tháng 11, 2011

Tính cập nhật kỳ lạ của một tư tưởng lớn


Nguyên Ngọc
Tạp chí Tia Sáng

Như chúng ta đều biết, do những điều kiện lịch sử đặc thù, vào khoảng đầu thế kỷ XX, Quảng Nam đã là một trung tâm nóng bỏng của công cuộc tìm đường cứu nước vô cùng quẫn bách và thống thiết sau những thất bại đau đớn của phong trào Cần vương (mà chính Quảng Nam cũng là một trong những trung tâm quan trọng nhất).

Phan Châu Trinh lớn lên và bước vào cuộc đời hoạt động trong chính tình hình đó. Ông ra Huế năm 1902, nhận làm một chức danh quan nhỏ trong bộ Lễ. Chắc chắn ông không hề có ý đeo đuổi con đường hoạn lô. Ông ra Huế là muốn đến đúng giữa trung tâm văn hoá chính trị quan trọng nhất của đất nước hồi bấy giờ, nơi cũng đang có mặt những bậc đại trí của dân tộc, trong đó có cả nhà yêu nước vĩ đại Phan Bội Châu. Chính ở Huế, cùng các bạn đồng chí, ông đã được tiếp xúc với các “tân thư”. Và trong các bậc đại trí được tiếp xúc với các tân thư thời bấy giờ, ông là người bị lay chuyển dữ dội nhất, sâu sắc nhất, đi đến quyết tâm thay đổi cơ bản và sắt đá nhất, đi đến một đường lối cứu nước mới mẻ triệt để và nhất quán nhất.

Học giả Hoàng Xuân Hãn đã nói về chuyển biến tư tưởng có ý nghĩa quyết định đó của Phan Châu Trinh như sau:

“Sau khi phong trào Cần vương bị đàn áp ta rã hoàn toàn, Phan Châu Trinh đã đi sâu nghiên cứu những nhước điểm cơ bản về văn hoá xã hội Việt Nam, cụ thấy rõ nguyên nhân sâu xa của sự thua kém về văn hoá xã hội của xã hội ta so với phương Tây đã đưa đến mất nước, bị đô hộ ngày càng khốc liệt...”. Phân tích này của Hoàng Xuân Hãn là hết sức quan trọng. Khác với tất cả các bậc thức giả, các nhà yêu nước lớn đương thời, Phan Châu Trinh là người đầu tiên đi tìm và tìm thấy nguyên nhân sâu xa “đã đưa đến mất nước và bị đô hộ ngày càng khốc liệt” không phải ở đâu khác mà là chính ở trong văn hoá, ở “những nhược điểm cơ bản về văn hoá xã hội của xã hội ta so với phương Tây”. Đây là một chuyển biến có ý nghĩa cách mạng trong phương hướng tìm đường cứu nước – mà trước hết và quan trọng nhất là tìm đúng nguyên nhân mất nước và thất bại đau đớn của tất cả các phong trào cứu nước trước đó mặc dầu vô cùng anh dũng, lẫm liệt – một nhận thức có tính cách mạng và hết sức cơ bản không chỉ về con đường cứu nước, mà về lâu dài, cả về con đường phát triển của dân tộc.
Phan Châu Trinh cho rằng sở dĩ chúng ta thua Pháp, mất nước, là vì chúng ta thua họ một thời đại.

Suốt mấy nghìn năm lịch sử trước đó, trong tất cả các cuộc chống xâm lược của Trung Hoa, rất nhiều lần chúng ta đã phải ở trong những tình thế chênh lệch lực lượng rất hiểm nghèo mà bất lợi luôn nghiêng về phía ta. Song dẫu có chênh lệch đến mấy về lực lượng, thì giữa chúng ta và họ vẫn là đồng đại. Đấy đều là những cuộc xâm lược và chống xâm lược trong nội bộ của chế độ phong kiến phương Đông. Lần này khác hẳn; chúng ta đối đầu với những lực lượng cao hơn hẳn chúng ta cả một thời đại. Sự thất bại là tất yếu.

Trước đó, Phạm Phú Thứ là một trong những người đầu tiên đã manh nha nhận ra, việc chúng ta lạc hậu quá xa so với đối phương về khoa học kỹ thuật. Nhưng sự so sánh của Phan Châu Trinh được đặt ở một tầm mức cao rộng hơn nhiều. Ông nhận ra sự lạc hậu về văn hoá cả một thời đại của chúng ta so với đối phương. Ông hiểu rằng đối mặt với phương Tây là chúng ta đối mặt với cả một thời đại khác về văn hoá, mới mẻ và tân tiến. Muốn cứu nước, phải khăc phục chính cái khoảng cách về thời đại đó, phải tự thay đổi dân tộc mình, đưa dân tộc vượt lên hẳn một thời đại mới, để từ đó, trong cuộc đối đầu, đọ sức với họ, giữa ta với họ là những đối thủ bình đẳng, ngang bằng nhau về thời đại. Đây là một bước tiến vĩ đại, một cuộc cách mạng trong tư duy. Về ý nghĩa, nó đưa công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc chính thức bước sang thời kỳ hiện đại. Nó chủ trương tạo nên một cơ sở văn hoá xã hội mới có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Là người đứng đầu phong trào Duy Tân, Phan Châu Trinh đã nêu ba nội dung cơ bản của phong trào duy tân: Dân trí, Dân khí, và Dân sinh. Ba nội dung đó gắn liền với nhau, nhưng như ta có thể thấy ngay trong cách sắp xếp vấn đề, chìa khoá là dân trí. Ông cho dân trí là quyết định hàng đầu: “Làm thế nào tạo được một số đồng chí (để rồi từ đó tạo được trong toàn dân, điều mà quả thực ông đã làm được một cách tuyệt vời) dám có cái nhìn đảo lộn ngai vàng, đảo lộn quý tộc, đảo lộn Khổng Mạnh, đảo lộn đặc quyền đảo lộn phương thức sinh hoạt, phong tục tập quán vào một thời xã hội còn tối ngòm ngòm”.

Tức chìa khoá của ông là “khai dân trí” (mở mang dân trí) ông là người có niềm tin khổng lồ vào tri thức của con người, con người có tri thức mới thì sẽ có thể làm nên tất cả, có thể lay trời chuyển đất.

Trong chỗ này có một điều cần chú ý: Phan Bội Châu cũng đã nói đến vấn đề dân trí. Trong Lưu cầu huyết lệ tân thư, ông đề ra “những kế hoạch sẽ cấp cứu đồ tồn” là:

Mở trí khôn cho dân (khai dân trí)
Nhức khối khí dân (chân dân khí)
Vun trồng nhân tài (thực nhân tài)
Nhưng sự khác nhau lớn giữa hai vị họ Phan là về vai trò của nhân dân. Đúng như Nguyễn Văn Xuân nhận định: “Chính từ chủ trương nhân dân tham gia việc nước mà Phan Châu Trinh luôn luôn không gặp và phản đối chủ trương của Phan Bội Châu”.

Vậy quan niệm “con người có tri thức mới” trước đây đối với Phan Châu Trinh phải là nhân dân, toàn dân có tri thức mới (chứ không phải một số ít nhân tài, đương nhiên không hề coi thường vai trò của nhân tài).

Và “tri thức mới” đó trong quan niệm của ông là gì? Ông khẳng định rất quyết liệt: đó là hiểu biết về Dân quyền (ngày nay ta gọi là dân chủ), người dân biết rằng mình có quyền, biết rõ các quyền của mình trong xã hội, trong cuộc sống, trên đất nước, trước thế giới. Theo cách nói ngày nay, có thể ông cho rằng điều cơ bản để tạo nên sức mạnh lay trời chuyển đất là dân chủ về thông tin (“Dân biết”), trao thông tin về những quyền của nhân dân cho chính nhân dân. Ông coi đó là nền tảng cơ bản, là cơ sở của độc lập tự chủ, của vận mệnh đất nước, của tiến bộ xã hội, của hạnh phúc nhân dân, là nội dung và ý nghĩa chủ yếu của độc lập dân tộc, và cũng là sức mạnh vô địch để khôi phục và giữ vững nền độc lập. Thậm chí ông còn cho rằng nếu có thoát khỏi tay ngoại bang, giành được độc lập, mà không có dân quyền, không có dân chủ, dân trí thấp, người dân không giác ngộ về quyền dân chủ của mình và sử dụng có hiệu quả quyền đó để làm chủ đất nước, xã hội, thì cũng là vô nghĩa, nhân dân không thể có hạnh phúc, đất nước không thể phát triển, và như vậy nền độc lập dân tộc cũng không thể vững chắc.

Phong trào Duy tân thực chất là một cuộc vận động cách mạng cơ bản và sâu sắc như ta đã thấy, lại chủ yếu là một cuộc vận động cải cách giáo dục rộng lớn và thật lạ kỳ về nhiều mặt.

Kỳ lạ: - Cuộc cách mạng giáo dục đó được tiến hành ngay dưới một chế độ thực dân hết sức tàn bạo, khắc nhiệt, giữ được thế hợp pháp của nó một cách tuyệt vời.

Khác với Đông Kinh nghĩa thục chủ yếu tập trung vào “giới tinh hoa” (élite) của xã hội, cuộc vận động giáo dục mới ở Quảng Nam, và sau đó lan ra khắp Trung Kỳ, ảnh hưởng lớn đến cả nước, chủ yếu nhằm vào một cuộc cải cách giáo dục sâu rộng, với tư tưởng cơ bản là thực học, đối với chúng ta ngày nay dường như bỗng trở lên thời sự một cách lạ thường, khi nền giáo dục của chúng ta đang lâm vào sự xuống cấp toàn diện và nặng nề. Nếu chúng ta đủ dũng cảm và trung thực để nhìn nhận nền giáo dục của chúng ta hiện nay thì phải nhận rằng một trong những căn bệnh trầm kha nhất của nó, gây nên sự xuống cấp của chính nó và ảnh hưởng không nhỏ đến sự xuống cấp trong xã hội – bệnh học giả dạy giả, chạy theo hư danh – cũng chính là căn bệnh mà Phan Châu Trinh đã quyết liệt đả kích và kiên quyết cải tạo, và đã cải tạo thành công, trong phong trào duy tân vĩ đại của ông tạo một sức mạnh xã hội to lớn đến không ngờ.

Phan Châu Trinh đã bắt đầu bằng thực học để tạo nên sức mạnh của xã hội và quốc gia, để xây dựng một xã hội dân chủ trên cơ sở một dân trí được thật sự nâng cao.

Phải chăng bài học cơ bản ấy, cả con đường đi cụ thể ấy – con đường bắt đầu bằng một cuộc đột phá cách mạng về giáo dục, rất có thể có ý nghĩa thật sự thiết thực đối với chúng ta hôm nay.

Nguồn: Tạp chí Tia Sáng

Cương lĩnh chính trị của Phan Châu Trinh


Mặc dù Phan Châu Trinh tự nhận mình là một “nhà hoạt động chính trị ở vương quốc An Nam”[1], nhưng trong số các trước tác của ông, người ta lại chưa tìm thấy một tác phẩm nào trình bày một cách thật rõ ràng mục tiêu và phương hướng chính trị của ông. Chính chỗ thiếu sót đó đã khiến cho một số nhà nghiên cứu hiện nay tìm cách giải thích tư tưởng của ông theo chiều hướng “cải lương”: chỉ đánh giá cao ông như một nhà giáo dục, nhà văn hóa lớn (thậm chí một nhà cách mạng văn hóa) mà vô tình hay cố ý bỏ quên vai trò của ông với tư cách là một nhà hoạt động chính trị.

Tuy nhiên, nếu xem xét thật kỹ lưỡng các tác phẩm của ông để lại, chúng ta có thể tìm thấy những nét phác họa của một cương lĩnh chính trị được ẩn giấu trong bản thảo của một bài thơ.

Bài thơ dài 500 câu có tên là “Tỉnh quốc hồn ca II”, được sáng tác vào khoảng năm 1922, nhưng mãi đến đầu thập niên 1980 mới được công bố.[2] Ở phần cuối của bài thơ, có một đoạn được đặt trong dấu ngoặc kép gồm 16 câu thơ, qua đó tác giả vạch ra một “dự án chính trị” hoàn toàn gắn kết một cách logic với những điều ông đã trình bày qua nhiều tác phẩm văn thơ hay bài phát biểu khác.[3] Bằng cách đối chiếu ngôn ngữ của Phan Châu Trinh với những khái niệm chính trị của ngày nay, tôi sẽ cố gắng giải mã bản cương lĩnh chính trị vắn tắt ấy, nhằm làm sáng tỏ mục tiêu, phương hướng chính trị mà nhà dân chủ hàng đầu của nước ta đã vạch ra vào đầu thế kỷ 20 – dựa trên kinh nghiệm của bản thân và thực tế của nền dân chủ Pháp.

Có thể điểm qua những nét lớn của dự án chính trị ấy như sau:

Mục tiêu trước mắt là đòi tự trị:

“Chánh tự trị bắt đầu hứa trước,

Định hạn kỳ phỏng ước mấy năm.

Chủ trương đã có chỉ nam,

Trăm điều tự khỏi lỗi lầm sai ngoa.

Để có thể hiểu “chánh tự trị” là gì, chúng ta phải đọc lại một tác phẩm có tên là Pháp-Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam (Nước Việt Nam mới sau khi Pháp-Việt đã liên hiệp, có thể gọi tắt là Tân Việt Nam). Đây là một bản thảo chưa hoàn tất được sáng tác trong quãng thời gian 1910-1911 nhưng chưa hề được công bố trước thập niên 1990. Một trong những lý do khiến Phan Châu Trinh không hoàn tất và công bố tác phẩm này có thể là do tác giả không muốn làm sứt mẻ uy tín của nhà yêu nước Phan Bội Châu – biểu tượng của cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam vào thời đó.

Trong tác phẩm này, Phan Châu Trinh viết: “Nay đem trong cả nước giả chia làm hai đảng: một là đảng cách mệnh, hai là đảng tự trị. Người phát khởi đảng cách mệnh là Phan Bội Châu, người phát khởi đảng tự trị là Phan Châu Trinh.”[4] Ở một chỗ khác, ông viết: “Nay thử đem trong nước giả chia làm hai đảng: một là đảng chủ trương chủ nghĩa bài Pháp độc lập, hai là đảng chủ trương chủ nghĩa cậy Pháp tự trị; nhưng tóm lại lúc bấy giờ thật chưa thành hình thức đảng phái.”[5]

Căn cứ vào các đoạn văn trên, chúng ta thấy rõ điểm khác biệt căn bản về mục tiêu chính trị và phương pháp đấu tranh giữa hai nhà yêu nước lớn của nước ta hồi đầu thế kỷ 20. Trong khi Phan Bội Châu chủ trương “bài Pháp” (đuổi Pháp) để giành độc lập thì Phan Châu Trinh lại chủ trương “ỷ Pháp” (dựa vào Pháp) để đòi tự trị. Nói cách khác, Phan Bội Châu coi giành độc lập, đánh đuổi thực dân Pháp là mục tiêu tiên quyết, phải giải quyết rốt ráo mục tiêu này trước khi giải quyết các vấn đề khác; còn Phan Châu Trinh lại chủ trương giành độc lập bằng hai giai đoạn: trước tiên đòi thiết lập chế độ tự trị, giai đoạn sau mới tính đến việc giành độc lập hoàn toàn. Có thể tóm tắt chủ trương của Phan Châu Trinh là “ỷ Pháp cầu tự trị” (dựa vào Pháp để đòi tự trị).

Thiết lập chế độ đại nghị:

Đòi tự trị đồng nghĩa với việc đòi quyền điều hành việc nước. Vấn đề cốt lõi của quy chế tự trị là thiết lập một chế độ đại nghị mà thiết chế trung tâm là một Nghị viện:

Có Viện thay mặt quốc dân,

Có quan trách nhậm đại thần phụng công.

“Viện thay mặt quốc dân” chính là Nghị viện hay Quốc hội do nhân dân bầu ra. Đây là cơ quan quyền lực cao nhất trong một quốc gia theo chế độ đại nghị (parliamentary system, régime parlementaire).

Nhưng nói “quan trách nhậm đại thần” (quan trách nhiệm đại thần) là có ý nghĩa gì?

Trong lá thư ngỏ gửi Vua Khải Định ngày 14.7.1922 (“Thư thất điều”), có một đoạn văn có thể giúp ta hiểu thêm về điểm này. Giải thích về vai trò của các ông vua trong các chế độ quân chủ lập hiến hoặc Tổng thống (Giám quốc) trong các chế độ cộng hòa ở châu Âu thời đó, Phan Châu Trinh viết:

“Còn theo các học thuyết Âu châu mà nói, sao gọi là nước? là hiệp dân lại mà thành nước; sao gọi là triều đình? là những người được uỷ quyền cho, phải thuận theo ý muốn của dân mà làm những việc lợi dân ích quốc.

Ông vua hay là ông Giám quốc, chẳng qua là người thay mặt cho một nước, cũng như một người tổng lý thay mặt cho một hiệu công ty mà thôi.

Ai đã chịu cái trách nhậm (trách nhiệm) ấy, đã được hưởng cái lợi quyền, thì phải làm cho hết cái bổn phận mình đối với dân, đối với nước; nếu không thế, thì cũng phải bị phạt, bị tội như mọi người vậy.

Ấy, tự do, bình đẳng là nghĩa thế, mà các nước văn minh thì nay phải đặt quan Nội các tổng trưởng (tức là Tể tướng) để thay quyền vua hay Giám quốc để chịu lỗi với dân là thế.”[6]

Qua đoạn văn này, ta có thể hiểu: ở các nước Âu châu thời đó, Vua hay Giám quốc (tức Tổng thống) tuy là nguyên thủ quốc gia, nhưng chỉ giữ vai trò tượng trưng cho chủ quyền quốc gia, chứ không có quyền hành lớn như Tổng thống ở Hoa Kỳ. Để giữ cho Vua hay Tổng thống khỏi dính líu đến công việc điều hành cụ thể và như thế có thể dễ dàng phạm sai lầm và bị bãi chức, người ta giao việc điều hành Chính phủ cho một người khác, nhằm “thay quyền vua hay Giám quốc để chịu lỗi với dân”. Nhân vật đó chính là “quan Nội các tổng trưởng”, tức là Thủ tướng.[7] Trong câu thơ nói trên, “quan trách nhiệm đại thần” chính là để chỉ chức vụ Thủ tướng.

Từ điển Đào Duy Anh giải thích “phụng công” là “chuyên lấy việc công làm trọng”. Hai câu thơ trên hàm ý: Nghị viện hay Quốc hội (Viện) thay mặt nhân dân cả nước (quốc dân), còn Thủ tướng (quan trách nhiệm đại thần) là người chịu trách nhiệm trước Nghị viện, và cho dù là người thuộc đảng phái nào, khi được cử nắm trọng trách đứng đầu cơ quan hành pháp, người này cũng phải lấy cái chung làm trọng (phụng công), không thể chỉ phục vụ cho lợi ích riêng của cá nhân, dòng họ, phe phái hay đảng chính trị của mình.

Mô hình của một chính phủ dân chủ trong đó Thủ tướng (người đứng đầu bộ máy hành pháp) do Nghị viện bầu ra và chịu trách nhiệm trước Nghị viện chính là mô hình được gọi tên là chính phủ chịu trách nhiệm (responsible government): chính phủ phải được sự tín nhiệm của Nghị viện và chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Trong trường hợp bị Nghị viện bất tín nhiệm thông qua một cuộc biểu quyết bất tín nhiệm (vote of non-confidence) hoặc Thủ tướng không giành được đủ số phiếu trong một cuộc biểu quyết tín nhiệm (vote of confidence), chỉ có hai giải pháp: hoặc Thủ tướng từ chức, hoặc Thủ tướng giải tán Nghị viện để tiến hành bầu lại một Nghị viện khác.

Mô hình đó chính là thể chế chính trị của nước Anh quân chủ lập hiến, và cũng là thế chế chính trị của nước Pháp dưới thời Đệ tam Cộng hòa (Troisième République) – thời mà Phan Châu Trinh sống lưu vong tại Pháp. Vào thời đó, Tổng thống Pháp do Nghị viện bầu (chứ không phải do toàn dân bầu) và không trực tiếp tham gia vào bộ máy hành pháp như dưới thời Đệ ngũ Cộng hòa (Cinquième République).[8]

Xây dựng chế độ pháp trị:

Phan Châu Trinh chủ trương áp dụng luật của nước Pháp thay cho luật pháp cũ (mô phỏng theo luật pháp của Trung Quốc) :

Pháp luật dựa Lang sa làm chủ,

Lợi quyền cùng nghĩa vụ cho cân.

Tại sao pháp luật phải dựa vào Lang sa (tức nước Pháp)?[9] Trong bản kiến nghị đề ngày 4.6.1911 nói “về các điều luật và về việc thành lập toà án bổ sung”, ông viết: “Ở Đông Dương, cái tổn hại tồi tệ nhất là ở chỗ quyền hành chính và quyền tư pháp ở trong cùng một tay; vì vậy dù quan có làm hại dân, dân cũng không dám nói gì; nếu có ai dám chống lại thì tội vạ sẽ đến ngay: nhẹ thì phạt tiền hoặc khổ sai, nặng thì bị đi đày hay bị chém; đó là nguyên do sự ta thán của dân.” Do đó, ông đề nghị: “cho cải tổ lại luật pháp, lập các toà án bổ sung và phân quyền: các quan chức ngạch hành chính lo việc cai trị, quan chức ngạch tư pháp coi xử việc pháp luật. Làm như vậy, những thiệt hại mà dân chúng phải gánh chịu sẽ ngày càng bớt đi.”[10].
Trong bài trả lời phỏng vấn dành cho nhà báo E. Dejean de la Bâtie vào hạ tuần tháng 6 năm 1925, so sánh luật pháp của nước Pháp với luật pháp của Nam triều (nhà Nguyễn), ông nhận xét như sau: “Luật pháp của Pháp cho tất cả mọi người, bởi vì với nó, người ta biết phải làm gì. Nó giống như một đường xe lửa, chỉ cần đi tránh ra ngoài đường ray thì sẽ khỏi bị tàu cán phải. Nhưng ở Trung Kỳ thì chính quyền Pháp nấp đằng sau một thứ chính quyền An Nam giả hiệu. Nó hành động không trách nhiệm. Tôi lấy lại ví dụ của tôi: thay vì một đường sắt, thì người ta đã cho chúng ta một chiếc ô tô, có thể không cần biết luật lệ đi đường, đuổi theo và cán chết chúng ta tuỳ thích.”[11]

Như vậy, sở dĩ ông muốn dựa vào luật pháp của nước Pháp để xây dựng luật pháp của nước ta là nhằm để xác định một cách cân phân giữa nghĩa vụ và quyền lợi, tạo ra một hành lang pháp lý minh bạch, khiến cho người dân yên tâm, không còn phải chịu đựng một thứ luật pháp co giãn một cách tùy tiện, tùy hứng và tùy ý thích của những kẻ nắm quyền lực.

Trong một bài nói chuyện tại Sài Gòn vào năm 1925, Phan Châu Trinh đã công khai tán dương chế độ pháp trị – mà ông gọi là dân trị, và nói rõ sự khác biệt giữa pháp trị với nhân trị như sau:

“Nhân trị nghĩa là cái phép luật (pháp luật) thi hành rộng rãi hay là nghiêm nhặt tuỳ theo cái lòng vui, buồn, thương, ghét của một ông vua mà thôi, còn phép luật (pháp luật) tuy có cũng như không.”[12] Trong khi đó: “dân trị tức là pháp trị. Quyền hạn và bổn phận của mỗi người trong nước, bất kỳ người làm việc nhà nước hay là người thường, đều có pháp luật chỉ định rõ ràng, không khác gì là đã có đường gạch sẵn, cứ trong đường ấy mà đi, tự do muốn bước tới bao nhiêu cũng được, không ai ngăn trở cả. Chỉ trừ khi nào xâm lấn đến quyền hạn của người khác thì không được mà thôi.” [13]

Nói tóm lại, chủ trương của Phan Châu Trinh là xây dựng một chế độ pháp trị, cai trị dựa trên luật pháp minh bạch chứ không dựa trên ý chí tùy tiện của cá nhân, phe nhóm hay đảng phái chính trị nào.

Thực hiện các quyền tự do căn bản:

Mục đích của chế độ tự trị là để nhân dân được làm chủ về mặt chính trị (được vào vòng chánh trị), tức là thực hiện các quyền tự do của công dân, trong đó đáng chú ý nhất là ba quyền tự do căn bản: tự do hội họp và lập hội (hội hè), tự do tư tưởng (suy nghĩ), tự do ngôn luận và báo chí (nói năng):

Để ta được vào vòng chánh trị,

Từ hội hè, suy nghĩ, nói năng.

Nói cách khác, song song với việc quyền lực chính trị được trao lại cho dân (nhân dân trực tiếp bầu ra cơ quan quyền lực cao nhất) là một quá trình hình thành một xã hội dân sự trong đó người dân được thực thi các quyền tự do căn bản nhất – những quyền tự do làm đầu mối dẫn đến tất cả các quyền tự do khác, mà ngày nay ta thường gọi chung là quyền con người (nhân quyền). Trong tư duy chính trị của Phan Châu Trinh, chúng ta thấy dân chủ luôn gắn liền với tự do, không hề có chút manh mối nào của thứ tư duy ngụy biện một mặt thì nói đến dân chủ nhưng mặt khác lại cố phủ nhận các giá trị chung của nhân quyền.

Từ chế độ quân chủ đi đến chế độ dân chủ là cả một bước nhảy vọt về chất, là một sự thay đổi đối với tập quán đã ăn sâu cả ngàn năm, là đi từ thân phận nô lệ của thần dân đến địa vị của công dân – người làm chủ xã hội. Cho nên dân ta phải đi từng bước, tiệm tiến và phải nhờ đến kinh nghiệm dân chủ của nước Pháp:

Cũng nên hạn chế có ngằn,

Dắt tay ta để lần lần cho theo.

Vào thời điểm Phan Châu Trinh viết những dòng thơ này (năm 1922), hầu hết các nước châu Á – kể cả Nhật Bản, vẫn chưa có được một nền dân chủ đúng nghĩa, và ngay cả ở các nước Âu-Mỹ, chế độ dân chủ cũng chưa phát triển thành thục và xác lập được vị trí vững chắc như ngày nay. Trong khi đó, hầu hết các lãnh tụ chính trị và các nhà tư tưởng của các quốc gia Á, Phi, Mỹ la-tinh lại chỉ chú ý đến chủ nghĩa dân tộc, cao lắm cũng chỉ nói đến chế độ dân chủ, rất ít người thật sự quan tâm đến các quyền tự do căn bản của người dân. Điều đáng ngạc nhiên là nhà yêu nước đất Quảng Nam mặc dù xuất thân là một nhà Nho, lại có thể tiếp thu một cách sâu sắc chủ nghĩa tự do (liberalism, libéralisme), không chỉ nhấn mạnh đến thể chế dân chủ (Nghị viện đại diện cho dân, Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Nghị viện), lại còn quan tâm đến các quyền tự do căn bản của người dân. Nhưng nếu nhìn lại toàn bộ quá trình hoạt động và phương pháp đấu tranh của ông (khai dân trí, chấn dân khí, tổ chức các hiệp hội, vận động quần chúng đấu tranh bằng phương pháp bất bạo động), thì chúng ta thấy điều này hoàn toàn hợp logic.

Mặc dù không phải là một nhà lý luận chính trị, không có điều kiện nghiên cứu sâu về các khái niệm chính trị học, nhưng qua hoạt động thực tiễn, Phan Châu Trinh đã tìm ra một đường lối xây dựng dân chủ từ bên dưới, xây dựng cái mà ngày nay chúng ta gọi là xã hội dân sự, để từng bước nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí, nhằm đạt được mục tiêu cao nhất là chuyển quyền làm chủ chính trị từ nhà vua sang tay nhân dân.

Xã hội dân sự chính là nền tảng vững chắc của một chế độ đại nghị; ngược lại thiết lập chế độ đại nghị chính là tạo ra những thiết chế dân chủ nhằm bảo đảm một cách đầy đủ các quyền tự do căn bản của nhân dân. Dân chủ gắn liền với mở rộng tự do và mở rộng tự do là để củng cố chế độ dân chủ. Đó chính là điều kiện bảo đảm cho một nền dân chủ có thực chất, không chỉ là dân chủ hình thức và không chỉ thu hẹp trong phạm vi của một thiểu số có đặc quyền, đặc lợi.

Về thời hạn thực hiện chế độ tự trị

Theo Phan Châu Trinh, không cần đòi hỏi nhanh hay chậm, mục tiêu chính là để người dân nước ta có thể tập dần dân chủ cho đến khi đạt được chế độ dân chủ thật sự, thay thế chế độ quân chủ bằng chế độ dân chủ:

Niên hạn chẳng kì kèo lâu chóng,

Cốt cho ta hiệu phỏng tinh thần.

Quyền vua đổi lấy quyền dân,

Chánh cang trước phải vài phần khai minh.

Việc mô phỏng (hiệu phỏng) tinh thần dân chủ của nước Pháp là nhằm đạt được sự thay đổi về quyền lực tối cao: quyền tối cao từ chỗ thuộc về nhà vua hay hoàng tộc sẽ chuyển sang tay nhân dân. Và để đạt cho được mục đích này, trước tiên cần phải làm sáng tỏ (khai minh) vài phần của chính cương (chánh cang). Theo Từ điển Đào Duy Anh, “chính cương” là “mối giềng về chính trị”. Đó là một từ thường được dùng ở nước ta vào thời đó, tương đương với cụm từ programme politique trong tiếng Pháp hay political platform trong tiếng Anh, thường được dịch là cương lĩnh chính trị.

Điều đáng lưu ý là trong bản cương lĩnh chính trị này, Phan Châu Trinh vẫn không đặt vấn đề vai trò của nguyên thủ quốc gia (nhà vua hay Tổng thống).

Có thể giải thích bằng hai giả thuyết:

Một là: Phan Châu Trinh vẫn mở ngỏ cho con đường quân chủ lập hiến: nếu vương triều nhà Nguyễn đồng ý đi theo con đường lập hiến thì Vua sẽ đóng vai trò nguyên thủ quốc gia. Nhà vua lập hiến hay Tổng thống theo kiểu nước Pháp thời đó tuy là nguyên thủ quốc gia nhưng vẫn chỉ giữ vai trò tượng trưng, quyền hành rất hạn chế; quyền lập pháp phải được giao cho Nghị viện, và quyền hành pháp được giao cho một Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Nghị viện.

Giả thuyết thứ hai liên quan đến đề nghị tiếp theo của ông về một liên minh chính trị mà ông gọi là Liên hiệp Pháp-Việt. Trong khuôn khổ của một chế độ tự trị (dominion), nguyên thủ quốc gia có thể chính là nguyên thủ của chính quốc – tức là Tổng thống Pháp, như trường hợp Vua hay Nữ hoàng Anh đóng vai trò nguyên thủ quốc gia của một số nước như Canada, Úc hay New Zealand, v.v…

Xây dựng liên minh chính trị giữa hai nước Pháp và Việt Nam:

Phan Châu Trinh có ý định thay mặt cho nhân dân Việt Nam để đề nghị với nước Pháp dự án chính trị này. Do đó, ở phần trước của đoạn thơ 16 câu nói trên[14], ông thay mặt cho nhân dân Việt Nam bày tỏ đề nghị với nhân dân Pháp:

Nay trộm phép tỏ tình đại biểu,

Cả tiếng kêu mấy triệu Lang sa;

Hỡi xin mở lượng hải hà,

Ra tay tế độ con nhà An nam.

Nhưng để thực hiện đúng theo trình tự pháp lý, dự án chính trị này phải được chính thức thông qua hai “sam”[15] (tức hai Viện của Nghị viện Pháp) và chuyển lên cho Giám quốc (Tổng thống Pháp) phê chuẩn:

Xin trên dưới hai “sam” hiệp mặt,

Định phương châm cho chắc một bề.

Dâng lên Giám quốc thủ phê,

Hỡi xin kể thử vấn đề như sau:

Có thể coi bản cương lĩnh này là một dự án chính trị mà ông định đề nghị với nhân dân và Nhà nước Pháp. Tất nhiên, để có thể trở thành một dự án có khả năng thực thi, ông phải tìm cách truyền bá trong nhân dân để được mọi người chấp nhận, và nhất là phải thuyết phục được phái bạo động – mà người đứng đầu là Phan Bội Châu.

Theo tác giả của dự án chính trị, nếu Nhà nước Pháp chấp nhận dự án này thì phía Việt Nam sẵn sàng chấp nhận một Liên hiệp Pháp-Việt, trong đó Việt Nam coi nước Pháp là “thầy” và Liên hiệp này sẽ là một liên hiệp bền vững giữa hai quốc gia Á và Âu:

Được như thế thỏa tình ao ước,

Nghĩa thầy trò sau trước yếm âu.

Lợi quyền chung chạ dài lâu,

Trắng vàng một họ, Á Âu một nhà.[16]

Như Phan Châu Trinh đã nhấn mạnh trong một lá thư gửi cho một du học sinh, khái niệm “thầy-trò” mà ông sử dụng có nghĩa là thầy dạy và học trò, hoàn toàn không có nghĩa là “thầy-tớ” (chủ-tớ). Ông hoàn toàn không chấp nhận quan hệ chủ-nô. Trong khi coi nước Pháp là quốc gia dân chủ đi trước cần học hỏi kinh nghiệm, ông hoàn toàn bác bỏ chế độ thực dân coi thuộc địa như một thân phận nô lệ.

Một liên hiệp chính trị như vậy sẽ giúp cho cả hai nước vượt qua được hận thù trong quá khứ để xây dựng hòa bình:

Một tung hô Lang sa vạn tuế,

Hai tung hô vạn tuế Việt nam.

Sao cho hai nước đồng tâm,

Bỏ ca trường hận chép ngâm thái bình.

Sở dĩ Phan Châu Trinh tin vào con đường này là vì ông tin vào chế độ dân chủ ở Pháp, vào những người Pháp có tư tưởng cởi mở ở Đông Dương và ngay tại chính quốc, chứ ông không tin vào “giặc Pháp” (tức thực dân Pháp, colonialistes) như một số người thường xuyên tạc. Trong thâm tâm, ông vẫn tin tưởng vào phong trào cánh tả ở Pháp – chủ yếu là cánh tả ôn hòa, mà tiêu biểu là Đảng Cấp tiến (Parti radical) và nhất là Đảng S.F.I.O. – tiền thân của Đảng Xã hội (Parti socialiste) ngày nay.

Mặc dù là một nhà nho, là người dân của một nước bị đô hộ, Phan Châu Trinh không hề có tư tưởng bài ngoại. Ông phân biệt rất rõ: nhân dân Pháp tại chính quốc hoàn toàn khác với thực dân Pháp mà người ta thường thấy ở thuộc địa:

Nghĩa đồng bào, tự do bác ái,

Lòng Lang sa rộng rãi biết bao;

Các anh thuộc địa lòng nào?

Làm hùm làm hổ khác nhau lạ lùng![17]

Lòng tin đó không chỉ là kết quả suy ra từ lý luận, mà còn là bài học được rút ra từ thực tế. Chính là nhờ những người Pháp có đầu óc cấp tiến tại Đông Dương như ký giả Babut, đại úy Roux, hoặc các chính khách cánh tả tại Pháp như Francis Pressensé, Marius Moutet, v.v… mà ông đã hai lần thoát khỏi cảnh tù ngục. Lòng tin đó hoàn toàn dựa trên kinh nghiệm thực tiễn của một nhà hoạt động chính trị đã từng bị tù tội chứ không phải chỉ là lòng tin ngây thơ hay xốc nổi.

Như thế, ta thấy Liên hiệp Pháp-Việt mà Phan Châu Trinh đề ra là một giải pháp “giành độc lập bằng con đường bất bạo động”, một giải pháp đấu tranh chính trị dựa vào sức dân là chính, chứ không phải là đường lối xin xỏ dân chủ, cầu xin độc lập hay “xin giặc Pháp rủ lòng thương”, như nhận định sai lầm và xuyên tạc của một số người có ác ý.

*

* *

Mặc dù bản cương lĩnh chính trị này đã bị bỏ quên trong một thời gian dài, nhưng ngày nay khi đọc lại, chúng ta không khỏi ngạc nhiên vì tính chất thời sự của nó. Tạm gác vấn đề “Liên hiệp Pháp – Việt” để dành lại cho một dịp khác, trong bài viết này tôi tập trung chủ yếu vào những mục tiêu thuộc lĩnh vực “nội trị”. Đối chiếu với tình hình thực tế hiện nay, chúng ta dễ dàng nhận thấy một điều: mặc dù đã bước sang thế kỷ 21, chưa có mục tiêu nào trở thành hiện thực trên đất nước của chúng ta.

... (*)

Điều đáng nói là toàn bộ nội dung của cương lĩnh chính trị mà Phan Châu Trinh trình bày qua 16 câu thơ nói trên mặc dù đã được viết cách đây gần một thế kỷ, nhưng nội dung của nó không hề lỗi thời mà ngược lại, có thể được coi là quá mới mẻ, quá táo bạo đối với phần lớn các nước Á, Phi và Mỹ Latinh hiện nay. Lý do căn bản là sự trỗi dậy của phong trào giải phóng dân tộc và độc lập dân tộc trong suốt thế kỷ 20 đã dẫn đến kết quả hầu hết các nước thuộc địa và lệ thuộc đều được giải phóng, nhưng độc lập dân tộc đã không đem lại tự do cho mỗi công dân và cũng không đem lại được những chế độ dân chủ đích thực.

... (*)

Chính trong hoàn cảnh đó, bản Cương lĩnh chính trị của Phan Châu Trinh trở thành bài học sống động đối với những người còn ưu tư với vận mệnh của đất nước. Hơn bao giờ hết, chúng ta nhận thức được tính cấp bách của công cuộc duy tân cần phải tiến hành trong những thập niên đầu thế kỷ 21 này. Công cuộc duy tân đó phải bắt đầu bằng việc cải cách hệ thống chính trị theo hướng dân chủ tự do... (*)


Suy cho cùng, nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí là để đạt đến tự do, dân chủ. Chỉ có chế độ dân chủ mới đem lại cho dân tộc ta cái chìa khóa để bước vào thời đại mới một cách vững vàng. Chỉ có chế độ dân chủ mới có thể huy động được một cách trọn vẹn tài trí và sức lực của nhân dân vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền dân tộc và tiến hành thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa Việt Nam vào hàng ngũ các quốc gia văn minh trên thế giới.

Đà Lạt, 14.7.2010 – 25.10.2010

(*): Bài viết có 3 đoạn tác giả liên hệ tới tình hình hiện nay của đất nước, do điều kiện chungta.com xin được lược bỏ. Xin tác giả và bạn đọc thông cảm!

Tài liệu tham khảo chính:

- TS Nguyễn Văn Dương, Tuyển tập Phan Châu Trinh, bản in lần thứ hai, Nxb Văn hóa – Thông tin, 2006, 1262 trang.

- Lê Thị Kinh (tức Phan Thị Minh), Phan Châu Trinh qua những tài liệu mới, tập 1, Nxb Đà Nẵng, 2001.

- Lê Thị Kinh (tức Phan Thị Minh), Phan Châu Trinh qua những tài liệu mới, tập 2, Nxb Đà Nẵng, 2003, 809 trang.


[1] Lê Thị Kinh, Phan Châu Trinh qua những tài liệu mới, tập II, sđd, tr. 242

[2] Theo Giáo sư Huỳnh Lý thì bài thơ này đã được công bố vào năm 1925 trên tờ Việt Nam hồn, một tờ báo của kiều bào tại Pháp, nhưng chứng cứ về điều này vẫn chưa được công bố. Xem Tuyển tập Phan Châu Trinh (Tuyển tập), sđd, tr. 334.

[3] 16 câu thơ đó (477-492) được đăng ở trang 368 trong Tuyển tập.

[4] Tuyển tập, tr. 581

[5] Tuyển tập, tr. 594.

[6] “Thư thất điều”, Tuyển tập, sđd, tr. 651-652

[7] Ở nhiều nước châu Âu, Thủ tướng được gọi là “Bộ trưởng thứ nhất” (premier ministre, prime minister), đứng đầu Nội các (cabinet).

[8] Từ năm 1962, nước Pháp đã chuyển sang một mô hình mới trong đó quyền lực của Tổng thống được tăng cường, thường được gọi là mô hình hỗn hợp (régime mixte, hybrid system) hay nửa-tổng thống (régime semi-présidentiel, semi-presidential system).

[9] Vào thời đó, người Việt hay gọi nước Pháp là Pháp-lang-sa, phiên âm của chữ France.

[10] Lê Thị Kinh, sđd, tập I, quyển 3, tr. 37-38

[11] Lê Thị Kinh, sđd, tập II, tr. 537

[12] Tuyển tập, tr. 977

[13] Tuyển tập, tr. 985

[14] Tuyển tập, tr. 367

[15] Trong tiếng Pháp, Hạ viện được gọi là “Chambre des députés” (Viện dân biểu) hay “Assemblée Nationale” (Quốc hội). Hai “sam” ám chỉ hai Viện của Nghị viện Pháp (Parlement français): Viện dân biểu hay Quốc hội (tức Hạ viện) và Viện nguyên lão (Sénat, tức Thượng viện). Trong bản thảo, tác giả ghi “cham”, viết tắt của chữ “chambre”.

[16] Tuyển tập, tr. 370

[17] Tuyển tập, tr. 350

Lâu quá rồi mới trở về ngôi nhà này

Trước nay mình chỉ dùng nó để theo dõi blog của người khác ! khi nào có thời gian rảnh rỗi mình sẽ chăm sóc cho nó nhiều hơn

Chủ Nhật, 18 tháng 7, 2010

Lê Đạt

06:26' PM - Thứ bảy, 04/07/2009



Lê Đạt (1929-2008)

Nhà thơ Lê Đạt là một nhân vật trụ cột của Phong trào Nhân văn-Giai phẩm. Ôngtự nhận mình là phu chữ, vì thơ ông viết rất kỹ tính, cẩn thận từng câu chữ, chọn lọc, suy nghĩ và dằn vặt rất nhiều..

- Ông sinh ngày 10-9-1929 tại Yên Bái, tên thật là Đào Công Đạt
- Ông tham gia cách mạng ngay sau khi cuộc Cách mạng tháng Tám thành công. Trong suốt quá trình hoạt động ông đều công tác ở ngành Tuyên huấn, sau lên Tuyên huấn Trung Ương, trực tiếp theo dõi phong trào văn nghệ, văn hóa và giáo dục.
- Hòa bình lập lại năm 1954, ông về Hà Nội làm biên tập viên, bí thư chi bộ của báo Văn Nghệ, rồi được học lớp tiếp quản để về tiếp quản khu 300 ngày ở Quảng Ninh.
- Khi Nhân văn-Giai phẩm bùng nổ, với bài thơ "Ông bình vôi" đăng trên báo Nhân Văn, ông bị lên án "phản động" và mất chức.
- Năm 1957, ông bị thuyên chuyển sang làm ở ban đối ngoại của Hội nhà văn Việt Nam, sau đó bị đưa ra khỏi Đảng khi đang chuẩn bị cho phát hành tập thơ Cửa hàng Lê Đạt giữa lúc đấu tranh chống tư sản sục sôi nhất vì bị cho rằng tập thơ tiếp tay cho tư sản.
- Năm 1958, ông bị khai trừ khỏi Hội Nhà Văn và đình chỉ xuất bản trong thời hạn 3 năm.
- Đến năm 1988, ông được phục hồi tư cách hội viên Hội Nhà văn và quyền xuất bản.
- Năm 2007, cùng với ba nhà thơ khác của Phòng trào Nhân văn-Giai phẩm là Trần Dần, Phùng Quán và Hoàng Cầm, ông được nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
- Ngày 21-4-2008, ông từ trần.

Quan điểm sáng tác



- Trong những nhà thơ cùng trang lứa, Lê Đạt cùng với Trần Dần là hai nhà thơ vị chữ. Ông đề cao tinh thần lao động chữ của nhà thơ đến mức ông gọi nhà thơ là “Phu Chữ”. Phu hay cu-li cũng vậy, đều cực nhọc muôn phần. Ông ghét thứ thơ đơn nghĩa và gọi nó là “thơ lộ thiên”. Vì vậy ông chủ trương đào sâu vào chữ để tìm ra nhiều vỉa từ nhằm làm cho thơ đa nghĩa, cô đúc và sâu sắc. Và ông muốn những con chữ ấy phải mang dấu ấn riêng của nhà thơ.
- Ông coi “Vân chữ cũng quan trọng như vân tay, có thể làm dấu ấn vào giấy thông hành của nhà thơ”.
- Thời kỳ chín muồi của thơ ông chính là thời ông cho ra mắt tập thơ Bóng Chữ gây xôn xao dư luận, khen chê “tóe lửa” trên văn đàn. Nhưng sau tất cả những tranh luận về thơ ông, người ta thấy ông có lý. Vậy là sự tìm kiếm sáng tạo mới của nhà thơ đã có tác động đến sự phát triển nền thơ của ta những năm cuối thế kỷ XX. (Nguyễn Trọng Tạo)



Tác phẩm đã xuất bản

Bài thơ trên ghế đá (chung với Vĩnh Mai, 1958)
36 Bài Thơ Tình (chung với Dương Tường, 1990)
Thơ Lê Đạt - Sao Mai (chung với Sao Mai, 1991)
Bóng chữ (1994)
Hèn đại nhân (1994)
Ngó lời (1997)
Truyện Cổ viết Lại, NXB Trẻ, 2006
Mi Là Người Bình Thường, NXB Phụ Nữ, 2008
Đối Thoại Với Đời Và Thơ, NXB Trẻ, 2008
U 75 Từ Tình, NXB Phụ Nữ, 2008
Đường Chữ, NXB Hội Nhà Văn, 2009

TsNguyenQuangA

Nguyễn Quang A

07:23' AM - Thứ ba, 03/03/2009


NGUYỄN QUANG A (sinh 1946)

- Sinh ra tại Bắc Ninh năm 1946, là con trai duy nhất trong gia đình có bố là liệt sĩ chống Pháp.
- Năm 1965, được Nhà nước đưa đi học tại Hungary rồi ở lại học tiếp phó tiến sĩ.
- Năm 1975: vào Viện kỹ thuật quân sự.
- Năm 1982, trở lại Hungary làm nghiên cứu sinh, bảo vệ thành công luận án tiến sĩ chuyên ngành điện tử viễn thông.
- Năm 1987, làm việc tại Tổng cục điện tử tin học Việt Nam. Sau đó, chuyển sang làm việc tại công ty liên doanh máy tính VN Genpacific.
- Năm 1989, thành lập công ty máy tính truyền thông điều khiển 3C.
- Năm 1993, tham gia sáng lập ngân hàng ngoài quốc doanh VP Bank, là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên ở Việt Nam.
- 27/9/ 2007, ông cùng 9 nhà nghiên cứu độc lập tên tuổi khác là :Hoàng Tụy, Phạm Chi Lan, Lê Đăng Doanh, Chu Hảo, Tương Lai, Phan Huy Lê, Trần Đức Nguyên, Trần Việt Phương thành lập Viện Nghiên cứu Phát triển IDS. Viện IDS với tư cách một tổ chức độc lập, vừa là tổ chức mở, phi vụ lợi chuyên nghiên cứu các vấn đề liên quan đến các chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển cho các cơ quan nhà nước và các tổ chức kinh tế xã hội. Ông cho rằng có nhiều tiếng nói độc lập như IDS hẳn tốt hơn là không có và nếu có tạo ra một trào lưu nhiều viện nghiên cứu chính sách tư nhân độc lập thì đó cũng là dấu hiệu đáng mừng.
- Ông từng giữ chức Chủ tịch Hội tin học Việt Nam. Hiện đang là Chủ tịch Hội doanh nghiệp Việt - Hungary
- Ông cũng được bình chọn là một trong 10 người có ảnh hưởng đến sự phát triển của Internet Việt Nam trong 10 năm qua.
- Tháng 8/2008 ông nhận giải thưởng quan hệ quốc tế của Hungary "vì các mối quan hệ quốc tế ".

Quan điểm dịch thuật, viết bài

- Có hai "giải tỏa" cần thiết cho sự hợp tác và hội nhập, cho sự phát triển của mỗi người, mỗi nước. Thứ nhất, đó là giải toả sự đóng kín về địa lý. Giải tỏa sự đóng kín về địa lý gắn với phát triển kinh tế - kỹ thuật, với quyền tự do đi lại của con người, với sự hội nhập quốc tế. Đã có sự phát triển vượt bực, song vẫn còn nhiều việc phải làm để giải tỏa sự đóng kín về địa lý đối với người dân của các nước đang phát triển.Thứ hai, là giải tỏa sự đóng kín về tư tưởng, để cho đầu óc mở mang với những luồng tư tưởng mới. Không làm thế sẽ không thể có sự phát triển.
Tôi đã cố gắng giúp mình giải tỏa khỏi sự đóng kín đó và hy vọng có thể giúp được một số người khác bằng các bản dịch, những bài viết và hoạt động của mình.


- Là dịch giả của tủ sách SOS2 với một số cuốn sách về kinh tế, chính trị, tư tưởng. Tên tủ sách làm một số người nghĩ là khẩn cấp bình phương, tức là rất khẩn cấp. Thực ra, tôi muốn giới thiệu các tác phẩm chọn lọc, có thể được coi là phần linh hồn quan trọng nhất để vận hành xã hội. Đó là "phần mềm của hệ thống xã hội" - là luật, chính sách, qui chế, qui tắc, phong tục, tập quán, văn hoá v.v., tức là những cái không thể sờ mó được mà chỉ có thể biểu diễn được dưới dạng thông tin; chúng qui định, điều khiển, hướng dẫn ứng xử của các thành viên xã hội (con người và các tổ chức). Phần mềm hệ điều hành xã hội (Social OS Software) là cái quan trọng nhất trong các phần mềm xã hội. Đó là xuất xứ tên của tủ sách theo chủ ý , và nó cũng biểu lộ nhu cầu cấp bách ở Việt Nam.



Tủ sách SOS2 (đã và sắp xuất bản)

J. Kornai: Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, Hội Tin học Việt Nam 2001, NXB Văn hoá Thông tin (NXB VHTT) 2002.

J. Kornai: Hệ thống Xã hội chủ nghĩa, NXB Văn hoá Thông tin 2002

J. Kornai- K. Eggleston: Chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, NXB VHTT 2002

G. Soros: Giả kim thuật tài chính, sắp xuất bản

H. de Soto: Sự bí ẩn của tư bản (NXB Chính trị Quốc gia, 2004)

J. E. Stiglitz: Chủ nghĩa xã hội đi về đâu?

F.A. Hayek: Con đường dẫn tới chế độ nông nô

G. Soros: Xã hội Mở: Cải cách chủ nghĩa tư bản toàn cầu, sắp xuất bản

K. Popper: Sự Khốn cùng của Chủ nghĩa lịch sử

K. Popper: Xã hội mở và những kẻ thù của nó, I, Plato

K. Popper: Xã hội mở và những kẻ thù của nó, II, Hegel và Marx

Thomas S. Kuhn: Cấu trúc của các cuộc Cách mạng Khoa học

Một năm hội nghị Diên Hồng Hungary

Kornai tự thuật, Bằng sức manh tư duy

Thomas L. Friedman: Thế giới phẳng - Tóm lược lịch sử thế giới thế kỷ XXI, NXB Trẻ

Peter Drucker: Xã hội tri thức, quản lý kinh doanh, xã hội, nhà nước

J. Kornai: K. Marx dưới con mắt của một trí thức Đông Âu

J. Kornai: Bàn về ổn định kinh tế vĩ mô

J. Kornai: Lịch sử và những bài học

GsHoangTuy

Hoàng Tụy

11:37' AM - Thứ bảy, 27/06/2009


GS. HOÀNG TỤY (sinh 7-12-1927)

- Sinh ngày 7-12-1927 trong một gia đình Nho học tại Điện Bàn, Quảng Nam, là cháu nội của người em ruột cụ phó bảng Hoàng Diệu. Ông mồ côi cha lúc lên 4.
- Đỗ đầu thi Tú Tài I tháng 5 tại Huế, dù nhảy hai lớp. Bốn tháng sau đó đỗ đầu kỳ thi Tú Tài II ban toán ở Huế.
- Năm 1946, giai đoạn Kháng chiến toàn quốc, ông về quê làm giáo viên trường trung học Lê Khiết ở Liên khu V.
- Năm 1951, ông vào Việt Bắc học trường đại học khoa học cơ bản do GS Lê Văn Thiêm mở. Nhưng ông được cử đi dạy và trở thành thầy dạy toán giỏi vì đã tự học hết chương trình toán của những năm đầu tiên.
- Năm 1954, ông bắt đầu dạy toán tại trường Đại học Khoa học, sau là Đại học Tổng hợp
- Năm 1995, ông được cử làm Trưởng ban cải cách hệ thống các trường trung học
- Năm 1957 ông sang Liên xô học tiếp. Tháng 3/ 1959 ông bảo vệ thành công luận án Phó tiến sĩ trường Đại học tổng hợp Mạc tư khoa về giải tích thực
- Năm 1960-1969 ông là Chủ nhiệm khoa toán lý của Đại học Tổng hợp Hà Nội.
- Năm 1961 ông chuyển hướng sang nghiên cứu vận trù học để thiết thực hơn với tình hình cụ thể Việt Nam. Một quyết định có ảnh hưởng đến sự nghiệp lâu dài của ông.
- Năm 1962, Ông gửi bài báo đầu tiên về vận trù học cho GS. Leonid Kantorovich (Giải Nobel kinh tế năm 1975 chung với T. C. Koopmans) và có hai chyến thăm ông tại Novosibirsk năm 1962 và 1964.
- Năm 1962-1968 ông cùng GS. Lê Văn Thiêm và Bộ trưởng Tạ Quang Bửu thực hiện nhiều chương trình để nâng cấp chất lượng khoa học cho cán bộ giảng dạy, mở nhiều lớp chuyên đề bồi dưỡng, thành lập Hội Toán (1963), thành lập tạp chí Toán học, kiến nghị mở kỳ thi giỏi toán miền bắc hàng năm, mở các lớp "Toán đặc biệt", tuyển chọn học sinh có năng khiếu...
- Năm 1964 ông công bố công trình toán học với một phương pháp "cắt", sau này được giới toán học thế giới trong ngành gọi là "Lát cắt Tụy", không những để giải nhiều bài toán tối ưu toàn cục, mà còn để giải những bài toán quy hoạch tổ hợp. Công trình được xem như đánh dấu sự ra đời ngành toán học mới: Tối ưu toàn cục
- Năm 1970: ông cùng GS Lê Văn Thiêm thành lập Viện toán học Việt nam và hoạt động ở đó cho đến nay.
- Từ 1976-1979: ông được mời giảng bài tại nhiều đại học hàng đầu trên thế giới cho đến nay.
- Năm 1980: ông chính thức phong hàm Giáo sư
- Năm 1980-1990: ông là giám đốc Viện toán và Tổng thư ký Hội toán học Việt Nam
- Năm 1990-1992: Ông là chủ tịch Hội đồng Toán học, Trung tâm Quốc gia Khoa học và Công nghệ
- Năm 1996: Ông được tăng Huân chương Hồ Chí Minh cho những đóng góp khoa học.
- Năm 2004: Ông tổ chức xemina kéo dài 3 tháng về giáo dục gồm nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước tham gia. Bản Kiến nghị chấn hưng, cải cách, hiện đại hóa giáo dục được 24 giáo sư, trí thức trong và ngoài nước ký tên.


Quan điểm sáng tác



- Hãy hết lòng với khoa học, trong khó khăn hãy vươn lên, người trí thức không thể sống hèn.

- Những điều trải qua trong những năm chiến tranh đóng vai trò chính yếu trong việc hình thành nhân cách tôi và chúng trở thành một phần của tôi.

- Cái ta cần hơn vào lúc này là những ngọn đèn pha để đưa ta đến bến, những nguyên tắc, quan niệm để dẫn dắt chúng ta đến một nền Giáo dục phù hợp yêu cầu cuộc sống hiện đại, xã hội hiện đại, thế giới văn mình hiện đại.

- Đối với tôi, dù nghỉ hưu hay còn trong biên chế, tôi vẫn làm việc đều đặn, vẫn nghiên cứu và hướng dẫn nghiên cứu Toán học, đồng thời quan tâm thiết tha đến sự nghiệp chấn hưng giáo dục, khoa học của đất nước, chừng nào còn đủ sức, vì đó là điều thiết yếu, nguồn vui trong cuộc sống của tôi.

- Con người không có cảm xúc, không rung động, vô cảm trước mọi việc thì không thể làm được bất cứ việc gì.

- Cái chính là có niềm đam mê với cuộc sống, say mê với điều mình đã tin tưởng và lựa chọn, nó giúp mình vượt qua tất cả những gì đắng cay, buồn bã nhất.

Các sách chuyên đề đã xuất bản

Giải tích hiện đại (1959)
Lý thuyết quy hoạch tuyến tính (1967)
Phân tích hệ thống và ứng dụng (1987)
Global Optimization; Deterministic Approaches (Tối ưu toàn cục - những cách tiếp cận tất định, viết chung với R. Horst, Springer, 1990)
Optimization on Low Rank Nonconvex Structures (viết chung với H. Konno, Phan Thiên Thạch, NXB Kluwer Academic Publishers, London, 1997

nhavanNguyenNgoc

Nguyên Ngọc

05:57' PM - Thứ bảy, 04/07/2009




Nguyên Ngọc (sinh 1932)

Nguyên Ngọc (5 tháng 9, 1932 – ) tên thật là Nguyễn Văn Báu, bút danh khác là Nguyễn Trung Thành. Ông là nhà văn, nhà văn hóa -giáo dục Việt Nam, phóng viên chiến trường, tổng biên tập báo và dịch giả.

- Năm 1932: ông sinh tại Đà Nẵng. Quê ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.

- Năm 1950: nhập ngũ, chủ yếu hoạt động ở Tây Nguyên – chiến trường chính của Liên khu V bấy giờ.

- Sau một thời gian ở đơn vị chiến đấu, ông làm phóng viên báo Quân đội nhân dân liên khu V và lấy bút danh Nguyên Ngọc.

- 1954-1955: tập kết ra Bắc, viết tiểu thuyết Đất nước đứng lên, kể về cuộc kháng chiến chống Pháp của người Ba Na, tiêu biểu là anh hùng Núp và dân làng Kông-Hoa, dựa trên câu chuyện có thật của Đinh Núp. Ông được trao giải thưởng Văn nghệ Việt Nam Sau này cuốn truyện được dựng thành phim.

- 1962: trở lại miền Nam, lấy tên là Nguyễn Trung Thành, hoạt động ở khu V, là chủ tịch chi hội Văn nghệ giải phóng miền Trung Trung Bộ, phụ trách Tạp chí Văn nghệ quân giải phóng của quân khu V.

- 1965: Đạt Giải thưởng Văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu với Rừng xà nu. Giải thưởng Hoa Sen của Hội Nhà văn Á Phi.

- Trong cả hai cuộc kháng chiến, ông gắn bó mật thiết với chiến trường Tây Nguyên, là đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông là bạn và dành nhiều tình cảm trân trọng đối với Nguyễn Thi, Nguyễn Khải.

- 1976-1980: Là Đại biểu Quốc hội khóa IV.

- 1987: Làm Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập báo Văn nghệ.

- 1988: Trưởng ban sáng tác Hội Nhà văn Việt Nam.

- Trong thời kỳ Đổi Mới và phong trào Cởi Mở ông đã có những đổi mới quan trọng về nội dung tư tưởng của tờ báo và được coi là người có công phát hiện, nâng đỡ nhiều nhà văn tên tuổi sau này như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư, Phạm Thị Hoài...

- 1995: Về hưu, tiếp tục tham gia nhiều hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc và chấn hưng giáo dục Việt Nam. Ông vận động thành lập trường đại học Phan Châu Trinh, đồng thời dịch một số tác phẩm lý luận văn học như Độ không của lối viết (Rolland Barthes), Nghệ thuật tiểu thuyết (Milan Kundera), tác phẩm của Jean-Paul Satre, Jacques Dournes...


Đôi dòng tự bạch của tác giả

- Tôi sống và làm theo những điều mình tin, và chịu trách nhiệm về tất cả điều đó, không thối lui, không nhân nhượng.

Đúng sai là điều khó tránh ở đời, nhưng tôi luôn coi trọng sự nhất quán trong thái độ sống: bao giờ cũng sống như một người tự do, trước hết với chính mình.

Giờ đây, ở tuổi 70, tôi đang cố gắng làm cho tốt bước khởi đầu của ngôi trường mà chúng tôi đang đeo đuổi, tạo cho được bước khởi đầu tốt, để những anh chị em trẻ hơn, giỏi hơn sẽ tiếp tục sau này. Về phần riêng, tôi tranh thủ viết một cái gì đó về những gì đã từng nếm trải. Thỉnh thoảng tôi cũng viết về những bức xúc xã hội mà mình không thể làm thinh, và dịch đôi cái thích thú, cần thiết, bởi vì không có cách nào để đọc một cuốn sách thật kỹ, thật sâu bằng cách cặm cụi dịch nó ra. Các công việc tôi làm đều bổ sung cho nhau, là một thứ thể dục đầu óc, làm chậm bớt sự già cỗi đáng sợ về trí tuệ.

- Tôi có một niềm tin có thể khá ngây thơ và ảo tưởng chăng: một xã hội có thật nhiều người say mê đọc sách thì sẽ bớt đi được rất nhiều những điều vẫn được gọi chung là tiêu cực: tội ác, sự giả dối, gian lận... Tôi luôn tin rằng sách có tác dụng làm thanh sạch tâm hồn.

- Con đường đi của sách chính là con đường đi của các tư tưởng, nó chuyển các tư tưởng lớn, mới, đi đến những nơi xa xôi nhất so với điểm xuất phát của chúng, tác động thường bắt đầu rất lặng lẽ, "hiền lành", nhưng rồi sẽ gây ra chuyển động, trước hết ở cái nơi không lực lượng nào và phương tiện gì có thể ngăn trở, dập tắt được, là trong đầu óc con người. Và một khi đầu óc con người đã chuyển động, thì tất sẽ gây ra chuyển động xã hội, sớm hay muộn. Một cách hình ảnh, có thể nói, con người cầm quyển sách mà đi tới trên đường tiến hóa của mình. Không thể tưởng tượng một thế giới mà không có sách.

- Trên thế giới, nguy cơ nghe nhìn tiêu diệt sách đã không hề diễn ra, nhưng ở ta, với tình hình cho đến nay, hình như đấy không phải chỉ là một mối lo hão. Tình hình đã có khá lên đôi chút gần đây, nhưng vẫn còn là đáng báo động. Phải có một chiến lược nghiêm túc khôi phục văn hóa đọc, nếu quả thật chúng ta không có lợi ích gì trong việc để có một xã hội dễ dãi và lười suy nghĩ.

- Cái hổng nhất của giáo dục nước ta là ở triết lý giáo dục. Giáo dục tiên tiến dạy cho con người ta khả năng đầu tiên là khả năng phản đối trước khi đồng ý, với nguyên lý cơ bản là tạo ra con người độc lập, tự do cho xã hội.

- Thiết lập lại một nền giáo dục khác hẳn nhằm tạo nên những con người tự do, dám và biết tự mình đi tìm lấy chân lý, sống và làm việc theo chân lý mình đã chọn, chịu trách nhiệm về sự lựa chọn ấy. Sự thống nhất của xã hội sẽ là sự thống nhất của những con người tự do, đầy trách nhiệm với chính mình và với xã hội, đầy tự chủ và sáng tạo.